Breaking News

Nghiên cứu GRADE: Thuốc lựa chọn thứ 2 điều trị đái tháo đường sau Metformin nên là thuốc gì.

Nghiên cứu GRADE, so sánh trực tiếp giữa bốn loại thuốc ĐTĐ thường được sử dụng cùng với metformin, cho thấy liraglutide và insulin có thể giúp kiểm soát đường huyết tốt hơn glimepiride và sitagliptin ở những người mắc bệnh ĐTĐ típ 2.

Thử nghiệm giai đoạn 3 bao gồm 5047 người tham gia từ Hoa Kỳ với thời gian mắc bệnh ĐTĐ típ 2 dưới 10 năm (trung bình 4,2 năm) và mức HbA1c là 6,8–8,5%. Các BN được điều trị bằng metformin đơn trị liệu với liều ít nhất 500 mg/ngày, sau đó tăng lên đến liều mục tiêu 2000 mg/ngày, với liều tối thiểu là 1000 mg / ngày. Sau đó các BN được chỉ định ngẫu nhiên để nhận sulfonylurea glimepiride, thuốc ức chế DPP-4 sitagliptin, GLP-1 RA Liraglutide hoặc insulin glargine, và vẫn tiếp tục điều trị bằng metformin.

Kết quả: tỷ lệ BN có HbA1c > 7,0% trong thời gian theo dõi trung bình khoảng 5 năm là thấp nhất trong nhóm insulin glargine và liraglutide (lần lượt là 67% và 68%), tiếp theo là nhóm glimepiride (72%), và cao nhất ở nhóm sitagliptin (77%).

Tỷ lệ mắc bất kỳ bệnh tim mạch (CV) nào – được định nghĩa là các biến cố tim mạch bất lợi chính, nhập viện suy tim, đau thắt ngực không ổn định, cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua hoặc tái thông mạch – thấp nhất ở nhóm liraglutide và glargine (5,8% và 7,6%. tương ứng), tiếp theo là nhóm glimepiride (8,0%) và sitagliptin (8,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ các biến chứng vi mạch bao gồm bệnh thận và bệnh đa dây thần kinh cảm giác xa là tương đương ở cả bốn nhóm nghiên cứu.

Các điều tra viên của GRADE cảnh báo rằng việc xem xét các biến cố tim mạch (CV) chưa hoàn tất vào thời điểm báo cáo, và do đó các phát hiện nên được coi là sơ bộ.

Trong phân tích an toàn, tỷ lệ các tác dụng ngoại ý nghiêm trọng có thể so sánh giữa bốn nhóm, từ 33% với liraglutide đến 37% với glimepiride. Hạ đường huyết nghiêm trọng xảy ra phổ biến hơn ở những BN tham gia được điều trị bằng glimepiride (2,3%) so với các phương pháp điều trị khác (0,7-1,4%). Không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm về tỷ lệ viêm tụy hoặc ung thư tuyến tụy.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng thử nghiệm không bao gồm các chất ức chế natri-glucose cotransporter-2 (SGLT2) , được sử dụng phổ biến trong thực hành lâm sàng hiện nay và rằng những phát hiện có thể không phổ biến đối với những người mắc bệnh đái tháo đường típ 2 mới được chẩn đoán hoặc đã lâu.