Breaking News

Nghiên cứu tình trạng gan nhiễm mỡ và nồng độ lipid máu ở trẻ thừa cân-béo phì tại trung tâm Nhi, BVTW Huếung ương Huế

ảnh minh họa

Trần Thị Ngọc Vân, Nguyễn Thị Cự

Trường ĐHYD Huế

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hiện nay, béo phì trẻ em đang là vấn đề sức khỏe ưu tiên thứ 2 trong công tác phòng chống các bệnh tại các nước Châu Á. Ở Việt Nam, béo phì ở trẻ em tuy đã được báo động nhưng vẫn chưa được quan tâm đúng mức bởi gia đình và nhân viên y tế. Các công trình nghiên cứu về béo phì và các vấn đề liên quan đến béo phì ở người lớn tương đối nhiều nhưng các nghiên cứu về vấn đề này ở trẻ em còn ít. Có bằng chứng cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa béo phì với rối loạn lipid máu và gan nhiễm mỡ ở trẻ em mà chính những rối loạn đó làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, sự phát triển thậm chí là tính mạng của trẻ em [7].

Mục tiêu: khảo sát nồng độ lipid máu và tình trạng gan nhiễm mỡ ở trẻ bị thừa cân- béo phì.

Đối tượng và PPNC: Đối tượng gồm 40 trẻ thừa cân- béo phì (TC – BP) từ 2 đến 15 tuổi đến khám tại Trung tâm Nhi BVTW Huế từ 5 /2011 đến 6/ 2012. PPNC: mô tả cắt ngang. Trẻ trong nghiên cứu sẽ được làm xét nghiệm Lipid máu và siêu âm gan để đánh giá tình trạng gan nhiễm mỡ.

Kết quả: Có sự biến đổi về nồng độ ở tất cả các chỉ số Lipid máu ở trẻ TC-BP so với nhóm chứng. 37,5% trẻ có tăng cholesterol máu; 50% trẻ tăng triglycerid (TG), 25 % trẻ giảm nồng độ HDL-C máu; 17,5% trẻ TC – BP trong nghiên cứu có tăng nồng độ LDL-C máu. Tình trạng gan nhiễm mỡ (GNM) chiếm 40% trẻ TC-BP. Chủ yếu là GNM độ I (chiếm 81,3%). Tỷ lệ GNM tăng lên dần theo tuổi tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Có sự liên quan nồng độ TG máu và cholesterol máu và tình trạng gan nhiễm mỡ.

Kết luận: Nghiên cứu cho thấy có sự rối loạn nồng độ lipid máu và tình trạng gan nhiễm mỡ và có mối liên quan nồng độ TG máu và cholesterol máu với tình trạng gan nhiễm mỡ ở trẻ TC-BP.

Từ khóa: thừa cân-béo phì, gan nhiễm mỡ, rối loạn lipid máu

ABSTRACT

STUDY THE STATUS OF FATTY LIVER AND BLOOD LIPID CONCENTRATIONS IN OVERWEIGHT-OBESE CHILDREN 2-15 YEARS OLD AT PEDIATRICS CENTER, HUE CENTRAL HOSPITAL

Tran Thi Ngoc Van1, Nguyen Thi Cu1

Background: Currently, obesity in children is the 2nd most prioritized health problem in the prevention of diseases in Asian countries. In Vietnam, obesity in children was alarming but not widely appreciated by the family and medical staff. The researchs on obesity and obesity-related problems in adults are relatively better-investigated but in children they are much fewer and rather sporadic. There is evidence that there is a close association between obesity and dyslipidemia and fatty liver in children; such disorders affect health, the development and even the lives of children.

Objective: to evaluate blood lipid levels and fatty liver of overweight-obese children.

Subjects and Methods: 40 overweight- obese children from 2 to 15 years olds were consulted at the Pediatrics Center of Hue Central Hospital from May 2011 to June 2012. Total number of patients was chosen as 40 children. Method: descriptive cross-sectional study. Children in the study were tested for the concentration of serum lipids and liver ultrasound to evaluate the status of fatty liver.

Results: There is a change in concentration of all lipid indices in overweight-obese compared to the control group. 37.5% of children with hypercholesterolemia; 50% of children with increased serum triglycerides, 25% of children with low serum levels of HDL-C; 17.5% of children with elevated serum LDL-C levels. 40% of children with fatty liver condition, mainly steatosis grade I (81.3%). Fatty liver ratio increased gradually with age but the difference was not statistically significant (p> 0.05). There is an association between blood levels of triglycerides, cholesterol and fatty liver.

Conclusion: The study showed disturbances in serum lipid concentrations and fatty liver in overweight-obese children, and a correlation between serum levels of triglycerides, cholesterol with fatty liver status.

Keywords: overweight-obesity, Fatty liver, disturbances serum lipids

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Béo phì trẻ em hiện nay đã trở thành vấn đề sức khỏe ưu tiên thứ 2 trong công tác phòng chống các bệnh tại các nước Châu Á và đang được xem như là một thách thức lớn đối với dinh dưỡng, sức khỏe của thế giới thế kỷ 21. Ở Việt Nam, béo phì ở trẻ em tuy đã được báo động nhưng vẫn chưa được quan tâm đúng mức bởi gia đình và nhân viên y tế. Các công trình nghiên cứu về béo phì và các vấn đề liên quan đến béo phì ở người lớn tương đối nhiều nhưng các nghiên cứu về vấn đề này ở trẻ em còn ít, lẻ tẻ. Có bằng chứng cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa béo phì với rối loạn lipid máu ở trẻ em mà chính những rối loạn đó làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, sự phát triển thậm chí là tính mạng của trẻ em [7].

Mục tiêu: 1. Khảo sát nồng độ lipid máu và mức độ gan nhiễm mỡ ở trẻ từ 2 đến 15 tuổi thừa cân – béo phì tại Khoa Nhi BVTW Huế; 2. Tìm hiểu mối liên quan giữa tình trạng rối loạn lipid máu, gan nhiễm mỡ và mức độ thừa cân – béo phì.

  1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

2.1. Đối tượng: 40 trẻ thừa cân-béo phì (TC – BP) từ 2 đến 15 tuổi đến khám tại trung tâm Nhi bệnh viện Trung ương Huế trong thời gian khoảng từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 6 năm 2012.

2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang.

              Tiêu chuẩn mẫu: Trẻ TC – BP đơn thuần từ 2 đến 15 tuổi. Không có bệnh lý làm ảnh hưởng đến lipid máu và gan nhiễm mỡ.

              Tiêu chuẩn chẩn đoán TC – BP và phân mức độ của TC – BP: Dựa theo phân loại của WHO với quần thể tham chiếu theo Chuẩn tăng trưởng của WHO 2007 [11].

Chẩn đoán độ nặng của TC – BP:

  • 95th > BMI ≥ 85th : thừa cân
  • 99th > BMI ≥ 95th : béo phì mức độ trung bình
  • BMI ≥ 99th : béo phì nặng

              Tiêu chuẩn loại trừ: – Những trẻ có bệnh lý khác như hội chứng thận hư, xơ gan cổ chướng, hội chứng Cushing, bệnh gan bẩm sinh, di truyền, viêm gan do vi khuẩn, vi rút.

– Trẻ có rối loạn lipid máu do dùng thuốc trước đó: động kinh, bệnh tim mạch, thuốc ức chế miễn dịch, cortisone…

Kỹ thuật: Trẻ được khám lâm sàng, làm xét nghiệm lipid máu và làm siêu âm gan để đánh giá tình trạng gan nhiễm mỡ. Đánh giá rối loạn lipid máu bằng cách so sánh với lipid máu của nhóm chứng là những trẻ bình thường. Đánh giá mức độ gan nhiễm mỡ trên siêu âm dựa theo Hagen – Ansert [3].

III. KẾT QUẢ

3.1. Đánh giá sự biến đổi lipid máu ở trẻ thừa cân – béo phì

Bảng 3.1: Phân bố nồng độ trung bình Cholesterol máu của trẻ TC – BP và nhóm chứng theo tuổi

Tuổi Nồng độ trung bình CT trẻ TC – BP Nồng độ trung bình CT nhóm chứng p
n (x±SD) mmol/l n (x±SD) mmol/l
< 6 10 4,40 ±1,01 10 3,27 ± 0,78 < 0,05
6 – 10 17 4,36 ± 0,83 17 3,63 ± 0,57 < 0,05
> 10 – 15 13 4,89 ± 0,79 13 3,98 ± 0,63 < 0,01
Chung 40 4,55 ± 0,87 40 3,65 ± 0,68 < 0,05

Bảng 3.2: Nồng độ trung bình Triglycerid máu của nhóm TC – BP và nhóm chứng theo tuổi

Tuổi Nồng độ trung bình TG nhóm TC – BP Nồng độ trung bình TG nhóm chứng p
n (x±SD) mmol/l n (x±SD) mmol/l
< 6 10 2,40 ± 1,53 10 1,38 ± 0,47 >0,05
6 -10 17 2,46 ± 1,27 17 1,46 ± 0,58 <0,01
> 10 – 15 13 3,09 ± 0,98 13 1,78 ± 0,32 <0,01
Chung 40 2,66 ± 1,26 40 1,55 ± 0,50 <0,01

Bảng 3.3: Nồng độ trung bình HDL máu của nhóm TC – BP và nhóm chứng theo tuổi

 Tuổi Nồng độ trung bình HDL-C nhóm TC – BP Nồng độ trung bình HDL-C nhóm chứng  p
n (X±SD) mmol/l n (X±SD)mmol/l
< 6 10 1,15 ± 0,34 10 1,29 ± 0,24 >0,05
6 -10 17 1,17 ± 0,19 17 1,45 ± 0,23 <0,01
> 10 – 15 13 1,20 ± 0,37 13 1,57 ± 0,23 <0,05
Chung 40 1,18 ± 0,29 40 1,44 ± 0,23 <0,01

Bảng 3.4: Nồng độ trung bình LDL-C máu của nhóm TC – BP và nhóm chứng

Tuổi Nồng độ trung bình LDL-C nhóm TC – BP Nồng độ trung bình LDL-C nhóm chứng  p
n (x±SD) mmol/l n (x±SD) mmol/l
< 6 10 2,26 ± 0,98 10 1,76 ± 0,53 >0,05
6 -10 17 2,16 ± 0,84 17 1,87 ± 0,54
> 10 – 15 13 2,34 ± 0,72 13 1,89 ± 0,55
Chung 40 2,25 ± 0,82 40 1,85 ± 0,54

Bảng 3.5: Tần suất rối loạn các thành phần lipid máu ở trẻ thừa cân-béo phì theo tuổi

Tuổi Tăng Cholesterol Tăng Triglycerid máu Giảm HDL Tăng LDL-C máu
n % n % n % n %
< 6 (n = 10) 2 20,0 4 40,0 2 20,0 2 20,0
6 – 10 (n = 17) 7 41,2 5 29,4 3 17,6 3 17,6
>10 – 15 (n = 13) 6 46,2 11 84,6 5 38,5 2 15,4
p >0,05 < 0,05 >0,05 >0,05
Chung (n = 40) 15 37,5 20 50,0 10 25,0 7 17,5

3.2. Tình trạng gan nhiễm mỡ ở trẻ thừa cân-béo phì

Bảng 3.6: Tỷ lệ các mức độ gan nhiễm mỡ (GNM)

Phân độ gan nhiễm mỡ Tổng
Độ I Độ II Độ III
n 13 2 1 16
% 81,3 12,5 6,2 100,0

Bảng 3.7: Phân bố GNM theo một số chỉ số lâm sàng

Chỉ số lâm sàng    GNM p
n %
Tuổi < 6 (n = 10) 3 30,0 > 0,05
6 – 10 (n = 17) 7 41,2
>10 -15 (n = 13) 6 46,2
Giới Nam (n = 32) 12 37,5 > 0,05
Nữ (n= 8) 4 50,0
Mức độ TC-BP Nhóm TC (n = 4) 1 25 > 0,05
Nhóm BP (n = 36) 15 41,7
Kiểu béo phì Trung tâm (n = 10) 6 60 > 0,05
Ngoại biên (n = 30) 10 33,3

3.3. Mối liên quan giữa tình trạng gan nhiễm mỡ và lipid máu ở trẻ thừa cân-béo phì 2-15 tuổi

Bảng 3.8: Nồng độ trung bình của các chỉ số lipid máu của nhóm có và không có GNM

 Thông số Nồng độ trung bình các chỉ số lipid máu (X ± SD mmol/l) p
Nhóm có GNM Nhóm không có GNM
CT 4,96 ± 0,91 4,29 ± 0,75 < 0,05
TG 3,29 ± 1,47 2,25 ± 0,95 < 0,05
LDL-C 2,48 ± 0,96 2,10 ± 0,70 >0,05
HDL-C 1,16 ± 0,25 1,19 ± 0,32 >0,05

Bảng 3.9: Liên quan giữa tình trạng gan nhiễm mỡ và rối loạn lipid máu

  Gan nhiễm mỡ
Không
Tăng choleserol máu 8 7
Tăng TG 12 8
Giảm HDL-C 5 5
Tăng LDL-C 5 2
  1. BÀN LUẬN

4.1. Sự biến đổi Lipid máu ở trẻ thừa cân-béo phì

Hiện nay ở Việt Nam, chưa có một tiêu chuẩn nào dành cho việc chẩn đoán rối loạn lipid máu ở trẻ em. Một số trường hợp người ta sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lipid máu ở trẻ em theo Nelson 2007, nhưng tiêu chuẩn này dành cho người nước ngoài do đó kết quả nghiên cứu có thể bị ảnh hưởng vì vậy chúng tôi quyết định lấy lipid của nhóm chứng để so sánh.

           Sự biến đổi thành phần cholesterol máu: Cholesterol là thành tố chủ yếu của màng tế bào và cũng là yếu tố chính để tổng hợp các nội tố như glucocorticoid, aldoseron và acid mật. Ngoài ra cholesterol còn là nguyên liệu để tổng hợp nên vitamin D3 trong cơ thể. Như vậy Lipid có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể, tuy nhiên chúng chỉ có lợi khi ở trong cơ thể với một lượng thích hợp, nếu bị rối loạn các thành phần này sẽ gây ra những hậu quả xấu. Những nghiên cứu cho thấy khi hàm lượng cholesterol trong máu quá cao thì sẽ tích đọng lại trên thành động mạch vành và dẫn đến bệnh xơ vữa động mạch vành với nhiều biến chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự biến đổi rõ rệt thành phần cholesterol máu ở trẻ TC-BP. 37,5% trẻ trong nghiên cứu có tăng nồng độ cholesterol máu, không có sự khác biệt về sự rối loạn này theo các lứa tuổi (bảng 3.5). Nồng độ trung bình cholesterol ở trẻ TC – BP là 4,55 ± 0,87 mmol/l, so với nhóm chứng 3,65 ± 0,68 mmol/l (bảng 3.1). Kết quả của chúng tôi cũng tương tự của một số tác giả khác [4],[5].

Sự biến đổi thành phần triglycerid máu: Triglyceride cũng là một dạng chất béo có trong máu, tích tụ phần lớn ở các mô mỡ, có vai trò là nguồn năng lượng dự trữ cho các hoạt động của cơ thể. Tuy nhiên, nếu hàm lượng triglycerid trong cơ thể cao mà HDL-C thấp hoặc LDL-C cao thì cũng có thể gây tổn hại không nhỏ cho sức khoẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng tăng TG là yếu tố nguy cơ độc lập của xơ vữa động mạch, tác động xấu đến bệnh mạch vành, vì vậy sự phát hiện rối loạn TG máu và tăng TG ở bệnh nhân béo phì có ý nghĩa trong việc phòng ngừa các tai biến tim mạch [10]. Kết quả bảng 3.2 và 3.5 cho thấy nồng độ trung bình triglycerid ở nhóm trẻ TC-BP cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng ở tất cả các lứa tuổi ngoại trừ ở nhóm trẻ < 6 tuổi. 50% trẻ TC-BP trong nghiên cứu có tăng triglycerid máu. Nồng độ trung bình triglycerid ở trẻ TC – BP là 2,66 ± 1,26 mmol/L, nhóm chứng là 1,55 ± 0,50 mmol/L. Theo nghiên cứu của Hoàng Thị Tín nồng độ trung bình triglycerid là 1,83 ± 1,29 mmol [4], của Bùi Hùng Việt nồng độ trung bình triglycerid là 2,0±0,6 mmol/l [5]. Như vậy nồng độ trung bình triglycerid trong kết quả của chúng tôi hơi cao hơn các tác giả khác, ngay cả nồng độ trung bình triglycerid của nhóm chứng trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn so với của Nelson. Phải chăng do chế độ ăn của các vùng khác nhau dẫn đến nồng độ triglycerid máu khác nhau, điều này cần nghiên cứu thêm. Tỷ lệ tăng TG trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với các tác giả khác trong nước (Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoa: 72,9% [2], nghiên cứu của Hoàng Thị Tín là 67,7% [4], Bùi Hùng Việt tỷ lệ này là 88% [5]) nhưng lại cao hơn một số nghiên cứu tại nước ngoài. Điều này có lẽ do tập quán ăn uống của đối tượng nghiên cứu khác nhau cũng như sử dụng tiêu chí đánh giá khác nhau.

            Lipoprotein tỷ trọng cao (HDL): được coi là loại cholesterol “có lợi”. Kết quả bảng 3.5 cho thấy: 25% trẻ TC-BP trong nghiên cứu có giảm nồng độ HDL-C máu. Kết quả của chúng tôi tương đương với các tác giả khác [2], [4], [5].

         LDL-C được gọi là cholesterol “có hại” do tích tụ nhiều ở động mạch, góp phần trong việc hình thành các mảng xơ vữa động mạch khiến động mạch ngày càng hẹp đi, cản trở tuần hoàn máu, dễ dẫn đến các bệnh lý tim mạch cũng như nhiều biến chứng khác. Hạ thấp nồng độ LDL-C trong máu là mục đích chủ yếu của các phương pháp điều trị tăng cholesterol máu. Nếu nồng độ LDL-C trong máu cao (>100mg/dl) sẽ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạch vành, bệnh mạch máu ngoại biên và đột quị.

Kết quả bảng 3.4 và 3.5 cho thấy 17,9% trẻ TC- BP trong nghiên cứu có tăng nồng độ LDL-C máu. Không có sự khác biệt về tần suất tăng LDL-C theo lứa tuổi trẻ bị TC-BP (p>0,05). Nồng độ trung bình của LDL-C trẻ TC- BP trong nghiên cứu là 2,25 ± 0,82 mmol/l. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng độ trung bình của LDL-C theo lứa tuổi (p>0,05).

Như vậy trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi có sự rối loạn cả bốn chỉ số lipid máu, đó là một chỉ điểm xấu cho tiên lượng sau này: nguy cơ hội chứng chuyển hoá, biến chứng tim mạch. Vì vậy cần phải có kế hoạch tầm soát điều trị ngay cho trẻ.

4.2. Tình trạng gan nhiễm mỡ ở trẻ thừa cân-béo phì

Thường quá trình nhiễm mỡ xuất hiện khoảng 3 tuần sau khi tác động của bệnh nguyên và có thể biến mất khoảng 6 ngày với chế độ điều trị tốt. Nếu không phát hiện và không điều trị thì từ gan nhiễm mỡ đơn thuần có thể diễn tiến tới viêm gan mỡ, xơ gan và ung thư gan [3], [5]. Kết quả của chúng tôi cho thấy đa số trẻ bị gan nhiễm mỡ ở mức độ nhẹ nhưng cũng đã xuất hiện GNM độ II, III ở trẻ TC-BP. Vì vậy việc tầm soát GNM ở trẻ TC-BP là rất cần thiết để phát hiện kịp thời và có biện pháp điều trị càng sớm càng tốt.

Tuy sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (có thể do số mẫu còn nhỏ) nhưng kết quả cũng cho thấy tình trạng gan nhiễm mỡ gặp tần suất cao hơn ở trẻ bị béo phì so với trẻ thừa cân. Vì vậy cần chú ý tầm soát tình trạng GNM ngay khi trẻ chỉ mới bị thừa cân và đưa ra biện pháp điều trị càng sớm càng tốt. Kết quả cũng cho thấy những trẻ có kiểu béo phì trung tâm có tỷ lệ bị gan nhiễm mỡ cao hơn nhóm trẻ béo ngoại vi. Điều này cũng đã được đề cập trong y văn.

Mặc dù tỷ số WRH chưa được xác định cho trẻ em nhưng theo nhiều nghiên cứu cho thấy khi trẻ có tỷ số WRH càng cao thì nguy cơ bị GNM càng tăng. Ở người lớn, dạng BP liên quan đến mức độ nặng của GNM, BPTT là yếu tố nguy cơ của GNM [6], [9]. Trong nghiên cứu của Ajay Duseja có 92% trường hợp gan nhiễm mỡ bị béo phì trung tâm [6].

Nghiên cứu ở người lớn của Bùi Thị Hoa ghi nhận gan nhiễm mỡ gặp nhiều ở bệnh nhân béo phì dạng nam, trong đó vòng bụng trung bình ở bệnh nhân nam là 94,92 ± 6,47 cm , và bệnh nhân nữ là 91,54 ± 8,96 cm [1].

4.3. Mối liên quan giữa tình trạng gan nhiễm mỡ và các chỉ số lipid máu

Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự tăng cao rõ rệt nồng độ TG máu và Cholesterol máu ở trẻ có gan nhiễm mỡ (bảng 3.8). Theo nghiên cứu của G. Perseghin [8] cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng tăng TG máu và gan nhiễm mỡ. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự ghi nhận của một số tác giả khác [1], [4], [8].

Mặc dù cơ chế gây gan nhiễm mỡ ở trẻ TC-BP vẫn chưa được biết một cách đầy đủ nhưng nhiều tài liệu đã cho thấy có mối liên quan giữa tăng TG và gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ là một quá trình tích tụ TG dưới dạng những hạt vi mỡ trong tế bào gan.

  1. KẾT LUẬN

5.1. Sự biến đổi lipid máu và tình trạng gan nhiễm mỡ ở trẻ TC- BP

5.1.1. Sự biến đổi Lipid máu:

– 37,5% trẻ TC- BP trong nghiên cứu có tăng cholesterol máu. Có sự tăng một cách rõ rệt nồng độ cholesterol máu ở trẻ thừa cân – béo phì ở tất cả các nhóm tuổi so với nhóm chứng (p < 0,05).

– 50% trẻ TC- BP trong nghiên cứu có tăng TG. Nồng độ trung bình triglycerid ở nhóm trẻ TC-BP cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng ở tất cả các lứa tuổi ngoại trừ ở nhóm trẻ < 6 tuổi.

– 25 % trẻ TC- BP trong nghiên cứu có giảm nồng độ HDL-C máu. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nồng độ HDL-CT ở trẻ TC- BP so với nhóm chứng (p<0,01), đặc biệt ở trẻ ≥ 6 tuổi.

– 17,5% trẻ TC- BP trong nghiên cứu có tăng nồng độ LDL-C máu.

5.1.2. Tình trạng gan nhiễm mỡ ở trẻ thừa cân-béo phì

– 40% trẻ TC-BP có tình trạng gan nhiễm mỡ. Chủ yếu là GNM độ I (chiếm 81,3%). Chỉ có 1 trường hợp có tình trạng GNM độ 3 (6,2%). Tỷ lệ GNM tăng lên dần theo tuổi tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)

– Tình trạng GNM tăng theo mức độ thừa cân- béo phì: 41,7% trẻ béo phì có tình trạng gan nhiễm mỡ, nhiều hơn so với trẻ thừa cân (25%), tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê.

              – 60% trẻ béo phì trung tâm có tình trạng gan nhiễm mỡ, cao hơn so với trẻ béo phì ngoại vi (33,3%) tuy nhiêm sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

5.2. Liên quan tình trạng gan nhiễm mỡ và lipid máu

– Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ trung bình các chỉ số CT và TG máu giữa 2 nhóm có GNM và không có GNM ở trẻ TC – BP.

– Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình các chỉ số LDL-C và HDL-C máu giữa 2 nhóm có GNM và không có GNM ở trẻ TC – BP.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bùi Thị Thu Hoa (2007), Nghiên cứu bilan lipid ở bệnh nhân gan nhiễm mỡ phát hiện qua siêu âm, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại Học Y – Dược Huế.
  2. Nguyễn Thị Hoa (2010), Đặc điểm bệnh nhân béo phì và hiệu quả điều trị béo phì tại khoa dinh dưỡng bệnh viện Nhi Đồng I (1998-2008), TC.DD &TP 6 (3+4), tr. 127-129
  3. Nguyễn Phước Bảo Quân (2006), Siêu âm bụng tổng quát, Nhà xuất bản Y hoc, tr.115-147.
  4. Hoàng Thị Tín (2006), Đặc điểm của trẻ thừa cân – béo phì, siêu âm có gan nhiễm mỡ tại khoa dinh dưỡng bệnh viện Nhi Đồng I – Năm 2005 – 2006, Luận thạc sĩ y học, Trường Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
  5. Bùi Hùng Việt (2010), Nghiên cứu những biến đổi hình thái và chức năng thất trái ở trẻ em 5 – 15 tuổi thừa cân – béo phì tại bệnh viện nhi đồng Cần Thơ, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường Đại Học Y – Dược Huế.
  6. Ajay Duseja, R Murlidharan, A Bhansali, Sunil Sharma, Ashim Das et al (2004), Assessment of insulin resistence and effect of metformin in nonalcoholic steahepatitis – a premilinari report, Indian Journal of Gastroentorology, 23 (1), pp. 12-15.
  7. Ting Fei Ho, FRCP Edin (2009), Cardiovascular Risks Associated With Obesity in children and aldolescents, Ann Acad Med Singapore 2009
  8. G. Pereghin, R. Bonfanti, S. Magni, G. Lattuada, F. De Cobelli et al (2006), Insulin resistance and whole body energy homeostasis in obese adolescents with fatty liver disease, Am J Physiol Endocrino Metab, 9 (1), pp. 1-2.
  9. F. Peres – Aguilar, S. Benllooch, M. Berenguer, J. Berenguer (2004), Nonalcololic steatohepatitis: Physiopathological, clinical and therapeutic implication, Revista Espanola Enfemedades Digestivas, Aran Ediciones, S.L, 96(9), pp 628 – 684.
  10. Sarah E. Barlow and the Expert Committee (2007), Expert Committee Recommendations Regarding the Prevention, Assessment, and Treatment of Child and Adolescent Overweight and Obesity: Summary Report”, PEDIATRICS,120 Supplement December 2007, pp. S164-S192 (doi:10.1542/peds.2007-2329C).
  11. WHO (2007), Obesity: Preventing and managing the global epidemic, WHO technical Report Series 894 Geneva