Ở trẻ em, nhiễm độc chì có thể gây ra các thiệt hại cho hệ thống thần kinh trung ương, ngoại vi, khuyết tật…
Trẻ em có thể tử vong nếu nhiễm chì ở mức độ nặng
Chì là một kim loại nặng có trữ lượng lớn trong vỏ Trái Đất. Tuy nhiên, chì hoàn toàn không có một vai trò sinh lý nào trong cơ thể con người. Đó là lí do tại sao những tác hại do sự phơi nhiễm chì gây ra là vô số.
Nhiễm độc chì được ghi nhận từ thời La Mã, Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại.Cho đến nay, kim loại độc hại này đã được hạn chế sử dụng. Dù vậy, hàng năm vẫn có khoảng 143.000 trường hợp tử vong do phơi nhiễm với chì, tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển.
Khi uống trực tiếp nước nhiễm chì vào cơ thể, chúng sẽ hấp thụ qua đường tiêu hóa. Đối với người lớn, lượng chì hấp thụ vào cơ thể chỉ khoảng 3-10%, nhưng với trẻ em sẽ hấp thụ khoảng 40-50% lượng chì hòa tan trong nước vào cơ thể. Đây chính là lý do tại sao trẻ em là đối tượng gặp nguy hiểm chính nếu tiếp xúc với chì.
Ở trẻ em, ngay cả mức thấp tiếp xúc với chì có thể gây ra các thiệt hại cho hệ thống thần kinh trung ương, ngoại vi, khuyết tật, chậm lớn, suy giảm thính giác và chức năng tế bào huyết học.
Đối với trẻ em, nhiễm một nồng độ chì thấp cũng có thể để lại di chứng trong suốt phần đời còn lại.
Trẻ lớn lên có thể gặp các vấn đề về IQ thấp, hiếu động… Trong trường hợp hiếm hoi, ngộ độc chì có thể gây co giật, hôn mê và dẫn đến tử vong.
Đối với phụ nữ mang thai, chì tích tụ trong cơ thể cạnh tranh với canxi trong xương. Nó có thể vượt qua hàng rào nhau thai, phơi nhiễm vào đứa bé. Hậu quả xảy ra là thai nhi giảm tăng trưởng và bà mẹ có nguy cơ sinh non.
Ở người trưởng thành, tiếp xúc với chì cũng được ghi nhận tác dụng lên hệ tim mạch như tăng huyết áp. Nó cũng gây suy giảm chức năng thận và ảnh hưởng xấu đến sinh sản. Tuy nhiên, nếu được phát hiện sớm, điều trị nhiễm chì có thể không để lại di chứng ở người trưởng thành.
Hàm lượng chì bao nhiêu dẫn đến ngộ độc?
Theo Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ, mức độ chì trong nước uống phải được giới hạn ở dưới 0.015 mg/L. Nhiều chuyên gia còn chỉ ra con số gây nguy hiểm thậm chí còn phải thấp hơn thế, dưới mức 0.01mg/L.
Tình trạng nhiễm độc trên người được chẩn đoán bằng xét nghiệm lượng chì trong máu. Một người được tính là ngộ độc và phải điều trị khi có mức độ chì trong máu cao hơn 0.6mg/L.
Đối với trẻ em, mức độ chì trong máu phải dưới 0.05mg/L. Mức độ chì từ 0.1 đến 0.25mg/L đã có thể liên quan đến suy giảm chức năng thần kinh. Mức độ trên 0.25mg/L sẽ gây ra đau đầu, khó chịu và các vấn đề thần kinh nghiêm trọng hơn.
Hàm lượng chì ở mức 0.5-0.7mg/L được tính là nhiễm độc vừa phải. Trên 0.7mg/L được tính là nhiễm độc nặng và có thể gây co giật, tử vong.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng nồng độ chì trong máu tăng khoảng 0.1mg/L, vớinồng độ 0.05mg chì trong 1 lít nước tiêu thụ.
Như vậy, chỉ cần uống nước có nồng độ chì 0.05mg/L, trẻ đã có thể phơi nhiễm chì với mức độ trong máu gấp hai lần bình thường. Với mức độ chì này đủ gây ra sự suy giảm chức năng thần kinh của trẻ.